Tin tức
on Saturday 01-02-2025 1:10am
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Phan Thị Tùng Phương, CN. Nguyễn Thị Thanh Tuyền - Đơn Vị Hỗ Trợ Sinh Sản IVFMD Buôn Ma Thuột- Bệnh Viện Đại Học Y Dược Buôn Ma Thuột
Giới thiệu
Thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization - IVF) và tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic sperm injection - ICSI) là phương pháp điều trị vô sinh rộng rãi hiệu quả với tỷ lệ biến chứng thấp. Một trong những yếu tố chính ảnh hưởng tới tỷ lệ thành công của các thủ thuật là kích thích buồng trứng bằng gonadotropin ngoại sinh. Bằng chứng hiện tại cho thấy có mối tương quan tích cực giữa số lượng tế bào noãn thu được và tỷ lệ thành công của IVF. Mục tiêu tối đa số lượng tế bào noãn chất lượng tốt được thu nhận phải cân bằng nguy cơ hội chứng quá kích buồng trứng (Ovarian hyperstimulation syndrome - OHSS), một chiến lược đã được phát triển trong năm qua để giảm nguy cơ phát triển biến chứng này.
Đánh giá chung hiện nay nhằm xác định các can thiệp dựa trên bằng chứng tốt nhất để ngăn ngừa hoặc giảm nguy cơ mắc và mức độ nghiệm trọng của OHSS ở bệnh nhân trải qua chu kỳ IVF hoặc ICSI. Kết quả đã xác nhận hiệu quả chu kỳ IVF hoặc ICSI đối vận GnRH (Gonadotropin releasing hormone) với chất đồng vận GnRH bằng cách đông lạnh phôi đối với bệnh nhân nhóm OHSS có nguy cơ cao. Các tác giả chỉ ra phác đồ kích thích buồng trứng bằng progestin là một lựa chọn phù hợp trong trường hợp chuyển phôi cũng như bệnh nhân ung thư để bảo tồn khả năng sinh sản và cho người hiến tặng.
Việc sử dụng kích thích nhẹ buồng trứng bằng gonadotropin đồng thời sử dụng metfomin cũng dẫn đến chiến lược điều trị hiệu quả cho nhóm bệnh nhân nguy cơ cao OHSS được sử dụng phác đồ Down Reglutaion.
Follitropin delta là một chế phẩm hormone kích thích nang tái tổ hợp (r - FSH) bằng công nghệ ADN tái tổ hợp. Trình tự axit amin của 2 tiểu đơn vị FSH alfa và beta giống hệt trình tự FSH (Follicle stimulating hormone) nội sinh của người.
Follitropin delta dùng trong kích thích buồng trứng với thử nghiệm lâm sàng (Registry of Clinical Trials - RCTs) được thực hiện trong môi trường khác nhau và tập trung vào các giai đoạn nghiên cứu dược lý khác nhau. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu đã đến lúc cung cấp cho bác sĩ lâm sàng dữ liệu tổng hợp. Cụ thể, mục đích đánh giá và phân tích tổng hợp có hệ thống cung cấp bằng chứng cập nhật về hiệu quả (cả về đáp ứng buồng trứng và kết quả sinh sản) và độ an toàn của follitropin delta khi so sánh với công thức của các gonatrodopin khác để kích thích buồng trứng trong chu kỳ IVF hoặc ICSI.
Phương pháp
Câu hỏi đánh giá
Câu hỏi chính của đánh giá hệ thống hiện tại và phân tích tổng hợp là hồ sơ an toàn và hiệu quả của follitropin delta có tốt hơn so với gonadotropin để kích thích buồng trứng trong chu kỳ IVF hoặc ICSI.
Mô hình dân số, can thiệp, so sánh, kết quả (Poplulation, Intervention, Comparison, Outcome - PICO)
Theo mô hình PICO, dân số bao gồm những phụ nữ trải qua phương pháp điều trị IVF hoặc ICSI can thiệp được sử dụng follitropin delta để kích thích buồng trứng nhiều lần. So sánh bao gồm các phương pháp điều trị gonadotropin khác, kết quả bao gồm kết quả chính và phụ về tính an toàn và hiệu quả. Kết quả gồm tỷ lệ mắc và mức độ nghiêm trọng của OHSS, ngày nằm viện vì biến chứng, biến chứng thai kỳ, kết quả sơ sinh và tỷ lệ thai lâm sàng tích lũy, tỷ lệ mang thai, tỷ lệ sẩy thai và số trứng trưởng thành thu nhận được. Các kết quả khác bao gồm tổng liều gonadotropin, thời gian kích thích buồng trứng, số phôi thu nhận được, tỷ lệ thai sinh hóa cũng được coi là quan trọng.
Kết quả
Tổng cộng có 7 RCTs (một RCT giai đoạn 1, hai RCT giai đoạn 2 và bốn RCT giai đoạn 3) được đưa vào phân tích định tính. Dữ liệu của ba RCT giai đoạn 3 đã được phân tích tổng hợp. Tất các các RCT đều được báo cáo dữ liệu so sánh giữa các liều khác nhau của follitropin delta hoặc giữa follitropin delta và follitropin alfa / beta.
Phân tích định tính
RCT giai đoạn 1
Vào buổi sáng của ngày sử dụng gonadotropin, 24 phụ nữ Trung Quốc khỏe mạnh được chọn ngẫu nhiên để nhận 1 liều follitropin delta tiêm dưới vùng da bụng, một cuộc thăm khám theo dõi được lên lịch 10 ngày sau khi dùng follitropin delta và đánh giá kháng thể kháng FSH sau 27 ngày.
Tất cả tác dụng phụ lên quan tới điều trị được phân loại ở mứa độ nhẹ ngoại trừ một trường hợp nổi mề đay từ nhóm liều follitropin delta được coi là trung bình. Chỉ có 1 phụ nữ có biểu hiện tăng alanine transaminase và aspartate aminotransferase khi thăm khám và theo dõi được báo cáo là một tác dụng phụ trong điều trị.
RCT giai đoạn 2
Vào năm 2024 đã công bố thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, phân tầng theo định lượng AMH (Anti Mullerian hormone) để đánh giá mối quan hệ đáp ứng liều của follitropin delta đối với đáp ứng buồng trứng của bệnh nhân trải qua chu kỳ IVF hoặc ICSI để nghiên cứu tiềm năng ảnh hưởng của nồng độ AMH ban đầu. Vào ngày thứ 2 đến thứ 3 của chu kỳ kinh nguyệt, 265 bệnh nhân chỉ định ngẫu nhiên tiêm dưới da bụng follitropin delta hoặc follitropin afpha. Ở những bệnh nhân được điều trị bằng follitropin delta số lượng tế bào noãn thu được tăng theo cách phụ thuộc liều. Tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ phôi nang giảm đáng kể khi tăng liều follitropin delta ở cả nhóm bệnh nhân định lượng AMH thấp và cao.
RCT giai đoạn 3
Bốn RCT giai đoạn 3 đã công bố và đưa vào đánh giá hệ thống. Trong tất cả các thử nghiệm, phác đồ antagonist GnRH đã được áp dụng như một chiến lược để ức chế sự gia tăng LH (Luteinizing hormone).
Tổng cộng 1.329 phụ nữ được chọn ngẫu nhiên để nhận follitropin delta hoặc follitropin alfa (150IU / ngày trong 5 ngày, có thể điều chỉnh liều tiếp theo, tối đa 450IU / ngày), kết cục chính là tỷ lệ thai diễn tiến.
Trong chu kỳ 2.513 phụ nữ đã được tiếp xúc thì có 252 phụ nữ sử dụng follitropin delta và 261 phụ nữ sử dụng follitropin alfa, kết cục chính là tỷ lệ phụ nữ có kháng thể kháng FSH do điều trị sau 2 chu kỳ kích thích buồng trứng lặp đi lặp lại. Tỷ lệ kháng thể kháng FSH do điều trị follitropin delta lần lượt là 0,8% và 1,1% trong 2 chu kỳ.
Thời gian kích thích
Có tất cả ba RCT giai đoạn 3 bao gồm trong phân tích định lượng đã báo cáo thời gian kích thích buồng trứng trung bình. Tổng hợp kết quả cho thấy thời gian kích thích buồng trứng cao hơn đáng kể ở những phụ nữ điều trị bằng follitropin delta so với điều trị bằng follitropin alfa / beta.
Tổng liều gonadotropin được dùng
Kết quả cho thấy ba RTCs được đưa vào phân tích định lượng đã được đưa vào phân tích tổng hợp, tổng liều gonadotropin sử dụng thấp hơn đáng kể ở phụ nữ được điều trị bằng follitropin delta so với những phụ nữ điều trị bằng follitropin alfa / beta.
Số lượng noãn thu nhận được
Kết quả ba RCT giai đoạn 3 đã phân tích tổng hợp, số lượng noãn thu được trên phụ nữ điều trị bằng follitropin delta và follitropin alfa / beta không khác biệt.
Tỷ lệ thụ tinh
Hai RCT giai đoạn 3 đã được báo cáo tỷ lệ thụ tinh, các nghiên cứu đều thể hiện không có sự khác biệt giữa các nhóm.
Số lượng phôi thu được
Hai RCT đã báo cáo số lượng phôi thu nhận được ở hai nhóm nghiên cứu, số lượng trung bình phôi ngày 3 được gộp lại, không có sự khác biệt đáng kế giữa nhóm phụ nữ sử dụng follitropin delta và follitropin alfa / beta được quan sát thấy.
Kết quả sinh sản
Tỷ lệ mang thai lâm sàng (Clinical pregnancy rate - CPR)
Dữ liệu của ba RCT giai đoạn 3 đã được tổng hợp, không có sự khác biệt giữa follitropin delta và follitropin alfa / beta được quan sát thấy.
Tỷ lệ thai diễn tiến (Ongoing pregnancy rate - OPR)
Tổng hợp kết quả ba RCT không thấy có sự khác biệt giữa những phụ nữ điều trị follitropin delta so với những phụ nữ điều trị follitropin alfa / beta.
Kết quả an toàn
OHSS (Ovarian hyperstimulation syndrome)
Tỷ lệ áp dụng các chiến lược ngăn ngừa OHSS thấp hơn đáng kể ở phụ nữ được điều trị bằng follitropin delta so với những phụ nữ điều trị bằng follitropin alfa / beta. Tỷ lệ OHSS sớm và tất cả các dạng OHSS cũng thấp hơn đáng kể ở nhóm phụ nữ điều trị bằng follitropin delta so với những nhóm phụ nữ điều trị bằng follitropin alfa / beta.
Thảo luận
Tại sao việc thực hiện bài đánh giá này lại quan trọng
Nghiên cứu hiện tại đánh giá có hệ thống đầu tiên về RCT được phân tích tổng hợp nhằm cùng cấp bằng chứng cho thấy follitropin delta được sử dụng bằng thuật toán dựa trên định lượng AMH và chỉ số khối cơ thể (Body mass index - BMI), an toàn hơn so với gonatrodopin tái tổ hợp khác cho thấy hiệu quả không khác biệt đáng kể. Cho đến nay các dữ liệu phân tích tổng hợp trước đây đã chứng minh sự tương đồng đáng kể giữa các loại gonatrodopin trên thị trường.
Tóm tắt các kết quả chính
Kết quả cho thấy follitropin delta liều cố định hằng ngày được điều chỉnh theo chỉ số AMH và BMI không có hiệu quả khác nhau khi so sánh với các gonadotropin tái tổ hợp khác. Đặc biệt không có sự khác biệt được quan sát thấy về tỷ lệ thai sinh sống, tỷ lệ thai diễn tiến, tỷ lệ thai lâm sàng.
Kết luận
Đánh giá có hệ thống hiện tại về RCT với phân tích tổng hợp cho thấy điều trị bằng follitropin delta được sử dụng thuật toán định lượng AMH và BMI, có thể liên quan tới tỷ lệ thấp hơn của tất cả các dạng OHSS so với gonadotropin tái tổ hợp khác, ở những bệnh nhân có khả năng đáp ứng bình thường với kích thích buồng trứng trong chu kỳ IVF. Nghiên cứu quan sát thấy tỷ lệ sinh sản thành công trên chu kỳ chuyển phôi giữa các nhóm điều trị bằng follitropin delta và nhóm được điều trị bằng follitropin alfa / beta. Tuy nhiên không có dữ liệu đưa ra về phương pháp điều trị, các nghiên cứu xác nhận sự khác biệt về hồ sơ an toàn và thực thể lâm sàng giữa hai phương pháp điều trị.
Tài liệu tham khảo
Efficacy and safety of follitropin delta for ovarian stimulation in vitro fertilization/ intracytoplasmic sperm injection cycles: a systematic review with meta-analysis.
Stefano Palomba, Donatella Caserta, Paolo Emanuele Levi-Setti & Andrea Busnelli,14 March 2024
Journal of Ovarian Research
Giới thiệu
Thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization - IVF) và tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic sperm injection - ICSI) là phương pháp điều trị vô sinh rộng rãi hiệu quả với tỷ lệ biến chứng thấp. Một trong những yếu tố chính ảnh hưởng tới tỷ lệ thành công của các thủ thuật là kích thích buồng trứng bằng gonadotropin ngoại sinh. Bằng chứng hiện tại cho thấy có mối tương quan tích cực giữa số lượng tế bào noãn thu được và tỷ lệ thành công của IVF. Mục tiêu tối đa số lượng tế bào noãn chất lượng tốt được thu nhận phải cân bằng nguy cơ hội chứng quá kích buồng trứng (Ovarian hyperstimulation syndrome - OHSS), một chiến lược đã được phát triển trong năm qua để giảm nguy cơ phát triển biến chứng này.
Đánh giá chung hiện nay nhằm xác định các can thiệp dựa trên bằng chứng tốt nhất để ngăn ngừa hoặc giảm nguy cơ mắc và mức độ nghiệm trọng của OHSS ở bệnh nhân trải qua chu kỳ IVF hoặc ICSI. Kết quả đã xác nhận hiệu quả chu kỳ IVF hoặc ICSI đối vận GnRH (Gonadotropin releasing hormone) với chất đồng vận GnRH bằng cách đông lạnh phôi đối với bệnh nhân nhóm OHSS có nguy cơ cao. Các tác giả chỉ ra phác đồ kích thích buồng trứng bằng progestin là một lựa chọn phù hợp trong trường hợp chuyển phôi cũng như bệnh nhân ung thư để bảo tồn khả năng sinh sản và cho người hiến tặng.
Việc sử dụng kích thích nhẹ buồng trứng bằng gonadotropin đồng thời sử dụng metfomin cũng dẫn đến chiến lược điều trị hiệu quả cho nhóm bệnh nhân nguy cơ cao OHSS được sử dụng phác đồ Down Reglutaion.
Follitropin delta là một chế phẩm hormone kích thích nang tái tổ hợp (r - FSH) bằng công nghệ ADN tái tổ hợp. Trình tự axit amin của 2 tiểu đơn vị FSH alfa và beta giống hệt trình tự FSH (Follicle stimulating hormone) nội sinh của người.
Follitropin delta dùng trong kích thích buồng trứng với thử nghiệm lâm sàng (Registry of Clinical Trials - RCTs) được thực hiện trong môi trường khác nhau và tập trung vào các giai đoạn nghiên cứu dược lý khác nhau. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu đã đến lúc cung cấp cho bác sĩ lâm sàng dữ liệu tổng hợp. Cụ thể, mục đích đánh giá và phân tích tổng hợp có hệ thống cung cấp bằng chứng cập nhật về hiệu quả (cả về đáp ứng buồng trứng và kết quả sinh sản) và độ an toàn của follitropin delta khi so sánh với công thức của các gonatrodopin khác để kích thích buồng trứng trong chu kỳ IVF hoặc ICSI.
Phương pháp
Câu hỏi đánh giá
Câu hỏi chính của đánh giá hệ thống hiện tại và phân tích tổng hợp là hồ sơ an toàn và hiệu quả của follitropin delta có tốt hơn so với gonadotropin để kích thích buồng trứng trong chu kỳ IVF hoặc ICSI.
Mô hình dân số, can thiệp, so sánh, kết quả (Poplulation, Intervention, Comparison, Outcome - PICO)
Theo mô hình PICO, dân số bao gồm những phụ nữ trải qua phương pháp điều trị IVF hoặc ICSI can thiệp được sử dụng follitropin delta để kích thích buồng trứng nhiều lần. So sánh bao gồm các phương pháp điều trị gonadotropin khác, kết quả bao gồm kết quả chính và phụ về tính an toàn và hiệu quả. Kết quả gồm tỷ lệ mắc và mức độ nghiêm trọng của OHSS, ngày nằm viện vì biến chứng, biến chứng thai kỳ, kết quả sơ sinh và tỷ lệ thai lâm sàng tích lũy, tỷ lệ mang thai, tỷ lệ sẩy thai và số trứng trưởng thành thu nhận được. Các kết quả khác bao gồm tổng liều gonadotropin, thời gian kích thích buồng trứng, số phôi thu nhận được, tỷ lệ thai sinh hóa cũng được coi là quan trọng.
Kết quả
Tổng cộng có 7 RCTs (một RCT giai đoạn 1, hai RCT giai đoạn 2 và bốn RCT giai đoạn 3) được đưa vào phân tích định tính. Dữ liệu của ba RCT giai đoạn 3 đã được phân tích tổng hợp. Tất các các RCT đều được báo cáo dữ liệu so sánh giữa các liều khác nhau của follitropin delta hoặc giữa follitropin delta và follitropin alfa / beta.
Phân tích định tính
RCT giai đoạn 1
Vào buổi sáng của ngày sử dụng gonadotropin, 24 phụ nữ Trung Quốc khỏe mạnh được chọn ngẫu nhiên để nhận 1 liều follitropin delta tiêm dưới vùng da bụng, một cuộc thăm khám theo dõi được lên lịch 10 ngày sau khi dùng follitropin delta và đánh giá kháng thể kháng FSH sau 27 ngày.
Tất cả tác dụng phụ lên quan tới điều trị được phân loại ở mứa độ nhẹ ngoại trừ một trường hợp nổi mề đay từ nhóm liều follitropin delta được coi là trung bình. Chỉ có 1 phụ nữ có biểu hiện tăng alanine transaminase và aspartate aminotransferase khi thăm khám và theo dõi được báo cáo là một tác dụng phụ trong điều trị.
RCT giai đoạn 2
Vào năm 2024 đã công bố thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, phân tầng theo định lượng AMH (Anti Mullerian hormone) để đánh giá mối quan hệ đáp ứng liều của follitropin delta đối với đáp ứng buồng trứng của bệnh nhân trải qua chu kỳ IVF hoặc ICSI để nghiên cứu tiềm năng ảnh hưởng của nồng độ AMH ban đầu. Vào ngày thứ 2 đến thứ 3 của chu kỳ kinh nguyệt, 265 bệnh nhân chỉ định ngẫu nhiên tiêm dưới da bụng follitropin delta hoặc follitropin afpha. Ở những bệnh nhân được điều trị bằng follitropin delta số lượng tế bào noãn thu được tăng theo cách phụ thuộc liều. Tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ phôi nang giảm đáng kể khi tăng liều follitropin delta ở cả nhóm bệnh nhân định lượng AMH thấp và cao.
RCT giai đoạn 3
Bốn RCT giai đoạn 3 đã công bố và đưa vào đánh giá hệ thống. Trong tất cả các thử nghiệm, phác đồ antagonist GnRH đã được áp dụng như một chiến lược để ức chế sự gia tăng LH (Luteinizing hormone).
Tổng cộng 1.329 phụ nữ được chọn ngẫu nhiên để nhận follitropin delta hoặc follitropin alfa (150IU / ngày trong 5 ngày, có thể điều chỉnh liều tiếp theo, tối đa 450IU / ngày), kết cục chính là tỷ lệ thai diễn tiến.
Trong chu kỳ 2.513 phụ nữ đã được tiếp xúc thì có 252 phụ nữ sử dụng follitropin delta và 261 phụ nữ sử dụng follitropin alfa, kết cục chính là tỷ lệ phụ nữ có kháng thể kháng FSH do điều trị sau 2 chu kỳ kích thích buồng trứng lặp đi lặp lại. Tỷ lệ kháng thể kháng FSH do điều trị follitropin delta lần lượt là 0,8% và 1,1% trong 2 chu kỳ.
Thời gian kích thích
Có tất cả ba RCT giai đoạn 3 bao gồm trong phân tích định lượng đã báo cáo thời gian kích thích buồng trứng trung bình. Tổng hợp kết quả cho thấy thời gian kích thích buồng trứng cao hơn đáng kể ở những phụ nữ điều trị bằng follitropin delta so với điều trị bằng follitropin alfa / beta.
Tổng liều gonadotropin được dùng
Kết quả cho thấy ba RTCs được đưa vào phân tích định lượng đã được đưa vào phân tích tổng hợp, tổng liều gonadotropin sử dụng thấp hơn đáng kể ở phụ nữ được điều trị bằng follitropin delta so với những phụ nữ điều trị bằng follitropin alfa / beta.
Số lượng noãn thu nhận được
Kết quả ba RCT giai đoạn 3 đã phân tích tổng hợp, số lượng noãn thu được trên phụ nữ điều trị bằng follitropin delta và follitropin alfa / beta không khác biệt.
Tỷ lệ thụ tinh
Hai RCT giai đoạn 3 đã được báo cáo tỷ lệ thụ tinh, các nghiên cứu đều thể hiện không có sự khác biệt giữa các nhóm.
Số lượng phôi thu được
Hai RCT đã báo cáo số lượng phôi thu nhận được ở hai nhóm nghiên cứu, số lượng trung bình phôi ngày 3 được gộp lại, không có sự khác biệt đáng kế giữa nhóm phụ nữ sử dụng follitropin delta và follitropin alfa / beta được quan sát thấy.
Kết quả sinh sản
Tỷ lệ mang thai lâm sàng (Clinical pregnancy rate - CPR)
Dữ liệu của ba RCT giai đoạn 3 đã được tổng hợp, không có sự khác biệt giữa follitropin delta và follitropin alfa / beta được quan sát thấy.
Tỷ lệ thai diễn tiến (Ongoing pregnancy rate - OPR)
Tổng hợp kết quả ba RCT không thấy có sự khác biệt giữa những phụ nữ điều trị follitropin delta so với những phụ nữ điều trị follitropin alfa / beta.
Kết quả an toàn
OHSS (Ovarian hyperstimulation syndrome)
Tỷ lệ áp dụng các chiến lược ngăn ngừa OHSS thấp hơn đáng kể ở phụ nữ được điều trị bằng follitropin delta so với những phụ nữ điều trị bằng follitropin alfa / beta. Tỷ lệ OHSS sớm và tất cả các dạng OHSS cũng thấp hơn đáng kể ở nhóm phụ nữ điều trị bằng follitropin delta so với những nhóm phụ nữ điều trị bằng follitropin alfa / beta.
Thảo luận
Tại sao việc thực hiện bài đánh giá này lại quan trọng
Nghiên cứu hiện tại đánh giá có hệ thống đầu tiên về RCT được phân tích tổng hợp nhằm cùng cấp bằng chứng cho thấy follitropin delta được sử dụng bằng thuật toán dựa trên định lượng AMH và chỉ số khối cơ thể (Body mass index - BMI), an toàn hơn so với gonatrodopin tái tổ hợp khác cho thấy hiệu quả không khác biệt đáng kể. Cho đến nay các dữ liệu phân tích tổng hợp trước đây đã chứng minh sự tương đồng đáng kể giữa các loại gonatrodopin trên thị trường.
Tóm tắt các kết quả chính
Kết quả cho thấy follitropin delta liều cố định hằng ngày được điều chỉnh theo chỉ số AMH và BMI không có hiệu quả khác nhau khi so sánh với các gonadotropin tái tổ hợp khác. Đặc biệt không có sự khác biệt được quan sát thấy về tỷ lệ thai sinh sống, tỷ lệ thai diễn tiến, tỷ lệ thai lâm sàng.
Kết luận
Đánh giá có hệ thống hiện tại về RCT với phân tích tổng hợp cho thấy điều trị bằng follitropin delta được sử dụng thuật toán định lượng AMH và BMI, có thể liên quan tới tỷ lệ thấp hơn của tất cả các dạng OHSS so với gonadotropin tái tổ hợp khác, ở những bệnh nhân có khả năng đáp ứng bình thường với kích thích buồng trứng trong chu kỳ IVF. Nghiên cứu quan sát thấy tỷ lệ sinh sản thành công trên chu kỳ chuyển phôi giữa các nhóm điều trị bằng follitropin delta và nhóm được điều trị bằng follitropin alfa / beta. Tuy nhiên không có dữ liệu đưa ra về phương pháp điều trị, các nghiên cứu xác nhận sự khác biệt về hồ sơ an toàn và thực thể lâm sàng giữa hai phương pháp điều trị.
Tài liệu tham khảo
Efficacy and safety of follitropin delta for ovarian stimulation in vitro fertilization/ intracytoplasmic sperm injection cycles: a systematic review with meta-analysis.
Stefano Palomba, Donatella Caserta, Paolo Emanuele Levi-Setti & Andrea Busnelli,14 March 2024
Journal of Ovarian Research
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối liên quan giữa lạc nội mạc tử cung và Adenomyosis với khả năng sinh sản và kết cục thai kỳ - Ngày đăng: 30-01-2025
Tác động của việc đồng chuyển phôi chất lượng tốt và phôi chất lượng kém đến kết quả mang thai trong quá trình chuyển phôi nang đông lạnh - Ngày đăng: 24-01-2025
Các Micro RNA trong tinh tương/nước tiểu của bệnh nhân vô tinh bế tắc làm dấu ấn sinh học để dự đoán sự hiện diện của tinh trùng và tinh tử ở tinh hoàn - Ngày đăng: 20-01-2025
Ung thư tiền dậy thì và các rối loạn huyết học ảnh hưởng đến số lượng tinh nguyên bào: nghiên cứu hồi cứu trên nhóm bảo tồn khả năng sinh sản nam giới - Ngày đăng: 20-01-2025
Kết quả lâm sàng và kết quả sơ sinh sau khi chuyển đơn phôi được đông lạnh-rã đông bằng phương pháp thủy tinh hóa và sử dụng phương pháp hỗ trợ thoát màng bằng tia lazer loại bỏ hoàn toàn màng zona pellucida - Ngày đăng: 14-01-2025
Phân tích các kết quả lâm sàng của việc lây nhiễm vi sinh vật do nhiễm từ môi trường phòng thí nghiệm phôi học trong các chu kỳ điều trị IVF-ET - Ngày đăng: 14-01-2025
Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ thuật vi phẫu trích tinh trùng từ tinh hoàn (Microdissection Testicular Sperm Extraction - m.TESE) ở bệnh nhân mắc hội chứng Klinefelter - Ngày đăng: 14-01-2025
Các yếu tố dự báo kết quả điều trị IVF: một đánh giá hệ thống - Ngày đăng: 14-01-2025
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Wyndham Legend Halong, Sáng thứ Bảy 22 . 3 . 2025 (8:30 - 11:45)
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Chiều thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025 và Chủ ...
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
FACEBOOK